Mục lục bài viết
Kỳ 1: Triết lý đầu tư của dòng họ Chris Davis
Dòng họ Chris Davis được biết đến là “dòng họ đầu tư”, với người sáng lập là Shelby Cullom Davis. Tính đến 2011, người thừa hưởng kết quả đầu tư vượt trội của gia đình trong hơn nửa thế kỷ, Christopher C. Davis đang quản lý trên 40 tỷ USD. Hiệu quả đầu tư của quỹ đạt 12,88% trong 10 năm qua, vượt 2,86% so với danh mục đồng cấp tại Morning Star.
Trong bài viết này, AzFin sẽ điểm qua lại những thành công và bài học đầu tư từ dòng họ Davis nói chung, và triết lý đầu tư của Chris Davis nói riêng. AzFin sẽ cố gắng chắt lọc những thông tin không chỉ về đầu tư chứng khoán, mà còn về truyền đạt kiến thức cho thế hệ sau để quý vị độc giả tham khảo.
Khởi nghiệp
Shelby Cullom, ông nội của Chris, khởi nghiệp năm 1947, thành lập công ty Shelby Cullom Davis với chủ yếu tiền vay. Chiến lược của Shelby lúc đó là tập trung vào những công ty tài chính (bao gồm bảo hiểm, ngân hàng, các tổ chức tài chính trung gian khác) có giá rẻ hơn nhiều so với giá trị thực, và luôn nhìn dài hạn.
Tại thời điểm đó, Dow Jones đang lình xình quanh mức 180 điểm, và giới tài chính dường như quên lãng đối với những công ty bảo hiểm. Shelby nhìn thấy cơ hội đó, các công ty bảo hiểm đang tiếp tục tăng trưởng lợi nhuận, nhưng giá cổ phiếu ông cho là đang có mức chiết khấu lớn và chưa phản ánh điều đó.

Kết quả sau đó có lợi nhuận vượt trội, từ 100.000 USD khởi nghiệp năm 1947, đến khi nghỉ hưu Shelby Cullom đã để lại tài sản lên đến 800 triệu USD đầu những năm 1990. Năm 1969 và 1980, Shelby C. được nêu trong top 400 người giàu nhất nước Mỹ theo tạp chí Forbes. Shelby cũng được biết đến là nhà từ thiện nổi tiếng thời kỳ đó.
Truyền thống gia đình
Sau Shelby Cullom, người con trai Shelby M.C., và người cháu Chris Davis đều trở thành những huyền thoại đầu tư. Một phần sự vĩ đại này bắt nguồn từ văn hóa gia đình. Một số những hoạt động thường kỳ của gia đình là:
- Gắn những sự kiện tham quan, nghỉ lễ cho mục đích phân tích, nghiên cứu doanh nghiệp.
- Các câu chuyện trong gia đình thường liên quan đến quản lý tiền, quản lý tài sản, và thường xuyên hơn, liên quan đến lãi kép. Một câu chuyện mà Shelby M.C thường hỏi những đứa con của mình là: số tiền con nhận được nếu con có 1 đồng USD ngày hôm nay, và trong một tháng nữa, mỗi ngày mỗi đồng USD đó đều gấp đôi. Và câu trả lời là 5 triệu USD thay vì 30 USD.
- Hoạt động hàng tuần tối thứ 6 là xem show truyền hình Wall Street Week.
- Kỳ nghỉ hè không có gì ngoài tích lũy kiến thức về đầu tư, các cậu bé được yêu cầu viết báo cáo phân tích với 100 USD một bài.
- Viết thư thường kỳ về đầu tư (tương tự như lá thư thường niên của Berkshire Hathaway) cho các nhà đầu tư, kể cả khi họ không yêu cầu. Đây là hoạt động để nêu cao kỷ luật trong đầu tư của gia đình Davis.
Mặc dù vậy, quan điểm của Shelby M.C là, “tôi chưa bao giờ bắt buộc con trai phải tham gia vào thế giới đầu tư, điều tôi mong muốn là muốn dạy chúng về cổ phiếu, và làm sao để quản lý được tiền của chúng, kể cả khi chúng thuê một người quản lý tiền bạc, chúng cũng có thể hiểu được về đầu tư”.

Chiến lược dạy của Shelby M.C, theo lời kể của Chris Davis, là lấy thực tiễn làm mục tiêu trước khi dạy lý thuyết. Ví dụ, để dạy tiếng Pháp cho các con, Shelby M.C đưa con đến nước Pháp trong 2 tuần, sau đó, đưa chúng quay lại trường để học tập. “Khi bạn đã có kinh nghiệm thực tế, bạn sẽ biết đọc sách như thế nào”.
Chiến lược “double pay” của Chris Davis
Chiến lược của Chris Davis là tiếp tục theo truyền thống của gia đình, ông thực sự thích lựa chọn những cổ phiếu tăng trưởng nhưng chưa được nhận ra. Đó là những công ty mà:
- Tăng trưởng nhanh hơn những gì mà các nhà đầu tư thông thường kỳ vọng, hoặc
- Tăng trưởng nhưng vẫn được giao dịch tại mức giá rẻ (tính theo hiện tại). Phương pháp này gọi là “Davis double pay”, tìm kiếm những công ty tăng trưởng trong nghi ngờ là bước một, bước 2 là chỉ số PE mở rộng khi các nhà đầu tư đánh giá cao cơ hội tăng trưởng này và sẵn sàng trả giá cao hơn. Và mục tiêu của Chris luôn là tìm kiếm “double pay”.
Phương pháp này đem lại biên an toàn lớn đó là, “kể cả khi bạn sai trong việc tăng hệ số P/E nhưng đúng trong kết quả kinh doanh, bạn vẫn ổn”. Mức lợi suất kép ưa thích của Chris là khoảng giữa 8 đến 15%., “vì mức lợi suất này rất dễ để tồn tại bền vững”.
Thật khó khăn khi trả ở P/E 30 lần cho một công ty đang tăng trưởng 30%/ năm, mà rủi ro cao là công ty đó khó lòng tăng trưởng 30% trong dài hạn. Vấn đề xảy ra là khi tốc độ tăng trưởng giảm, nhà đầu tư sẽ phải chịu một mức thua lỗ lớn, lớn tương tự như “double pay” theo nghĩa ngược lại.

Do vậy, nhà đầu tư cần phải có kỷ luật về mức giá trả ra để giảm bớt rủi ro gặp phải thua lỗ lớn trong tương lai. Ông nội và bố của Chris Davis thường tìm thấy những cơ hội tốt cho “double pay” thường trong lĩnh vực tài chính. Cho dù lý do là gì, nhưng như thời của họ quan sát, ngành tài chính luôn được giao dịch tại mức giá chiết khấu. Nguyên nhân có thể một phần do sự sử dụng đòn bẩy quá mức của ngành. Ngoài ra, đây là ngành kinh doanh mang nặng tính chu kỳ. Sẽ luôn có một số bị phá sản. Nhưng, ở chiều ngược lại, một số công ty có thể tăng trưởng rất lâu trong 20-30 năm qua đều là trong ngành tài chính, như AIG và Berkshire Hathaway.
Một điều ngạc nhiên là 20 năm trước Citibank là công ty lớn nhất thế giới, và bây giờ vẫn vậy? Vì sao? Vì tiền, tự nó đã tạo ra lãi kép theo thời gian. Ngành bảo hiểm chẳng hạn, thường sẽ ít có đối thủ cạnh tranh mới, do đó, sẽ có nhiều cơ hội để xuất hiện một nhà quản lý tuyệt vời trong một công ty vĩ đại. Và quan trọng hơn, công ty dịch vụ tài chính không có giới hạn nào cho tăng trưởng.
Ngược lại, những công ty sản xuất, ví dụ như ô tô, sẽ bị giới hạn trong quy mô thị trường. Và nếu họ có quy mô lớn hơn 5 lần hiện tại, họ sẽ không thể bán hàng. Công ty bảo hiểm có mức tăng trưởng đáng kinh ngạc trong 20-30 năm qua, GEICO, thuộc tập đoàn Berkshire Hathaway, chỉ chiếm 4% thị phần bảo hiểm phi nhân thọ tại Mỹ.

Phương pháp này có thể áp dụng cho mọi công ty, mọi lĩnh vực, từ sản phẩm tiêu dùng, công nghệ, công ty năng lượng đều có thể có những cơ hội cho nhà đầu tư công ty tăng trưởng tốt tại mức giá thấp. Thời của Shelby Cullom, Chris Davis chỉ tin tưởng vào dòng tài chính, và đó là cách ông gây dựng sản nghiệp.
AzFin cho rằng, đầu tư vào ngành nào còn tùy thuộc theo xu hướng vĩ mô lớn. Những năm 80 thế kỷ trước, cho thấy sự dịch chuyển sang các công ty sản xuất hàng hóa tiêu dùng. Thập kỷ những năm 70, là của ngành bất động sản, khi mà thế hệ baby boomers bắt đầu mua nhà. Thập kỷ 80, họ bắt đầu có con, và họ hướng đến những nhãn hiệu tiêu dùng nổi tiếng – lúc đó là Campbell’s soup và Quaker Oats. Sang thập kỷ 90, những công ty này đạt đỉnh về mức tích lũy tài sản, nền tảng tài chính vững mạnh. Do vậy, nếu nhà đầu tư chỉ đầu tư một mảng (bất động sản hoặc tiêu dùng) qua ba thời kỳ trên, có lẽ kết quả tích lũy sẽ không được tốt.
Khi Chris Davis tìm kiếm cơ hội, ý tưởng đầu tư thường xuất hiện từ cả hai chiều Top-down (với xu hướng vĩ mô lớn) hoặc bottom-up. Với ý tưởng bottom-up, giá cổ phiếu và ban quản lý là quan trọng nhất.
Kỳ 2: Lựa chọn doanh nghiệp
Trong kỳ trước, AzFin đã trình bày đến độc giả sự hình thành triết lý đầu tư của Chris Davis, những suy nghĩ của ông về xu hướng đầu tư qua nhiều thập kỷ. Kỳ này, chúng ta cùng nghiên cứu về việc lựa chọn doanh nghiệp của ông.

Đằng sau mỗi cổ phiếu là một doanh nghiệp, một mô hình kinh doanh
Quan điểm của Chris Davis là khi đầu tư, bạn luôn phải coi cổ phiếu là doanh nghiệp. Luôn có hai câu hỏi cần phải trả lời mỗi khi mua doanh nghiệp – mọi doanh nghiệp. Một là, loại mô hình kinh doanh nào bạn muốn sở hữu, hãy suy nghĩ như công ty TNHH, mà bạn không bao giờ muốn bán ra.
Khi suy nghĩ với câu hỏi này, câu trả lời sẽ thường sẽ hướng đến: tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hoặc tiềm năng trong tương lai cao, chất lượng tài chính tốt…. Tuy đơn giản, nhưng đây đều là những tiêu chí định lượng khó trả lời.
Thử suy nghĩ thế này, khi bạn sở hữu một doanh nghiệp, bạn sẽ quan tâm rất nhiều thứ. Ví dụ thuế, nếu để lợi nhuận cao, thuế sẽ cao, và dòng tiền thực thu cho bạn thấp. Do đó, bạn sẽ thay đổi một chút về ghi nhận, như ghi nhận doanh thu chậm, ghi nhận chi phí trước (mà đáng lẽ ra chi phí đó phải được vốn hóa), khấu hao nhanh…
Điều đó sẽ khiến cho số tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ ở mức thấp. Vì vậy, khi xem xét một doanh nghiệp, nhà đầu tư cần nhìn vào con số thật, con số đó không có trên báo cáo tài chính, để khi sở hữu nó, bạn có thể điều chỉnh để tăng được lợi nhuận thực mang về cho chính mình.

Cho dù công ty bạn đang sở hữu một công ty bảo hiểm lớn hay một công ty thuộc ngành tiêu dùng, thì liệu mô hình kinh doanh tốt này liệu có bị cạnh tranh, khiến tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm xuống?
Trong nền kinh tế thị trường, nơi nào tạo ra lợi nhuận cao, nơi đó sẽ xuất hiện đối thủ cạnh tranh. Vậy để trả lời câu hỏi thứ hai, nhà đầu tư bắt đầu cần phải nghiên cứu lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thương hiệu không? Bản quyền (độc quyền) sáng chế? Chiếm thị phần lớn trong một ngành đã bão hòa? Ban lãnh đạo hiện tại xuất sắc? Điều gì cho phép doanh nghiệp tiếp tục kiếm lợi nhuận cao trên vốn một cách bền vững?
Khi suy nghĩ như vậy, nhà đầu tư đã suy nghĩ về kinh doanh với tư cách là chủ. Nếu bạn sở hữu một cửa hàng giặt là – sấy khô quần áo, lợi nhuận lại đang tuyệt vời nữa, thì điều gì sẽ xảy ra nếu hàng xóm của bạn cũng mở cửa hàng tương tự như vậy? Có thể bạn sẽ mở một lúc nhiều cửa hàng trên phố, các cửa hàng tự ăn doanh số của nhau, và khiến cho đối thủ mới rất khó thâm nhập. Hoặc bạn có thể thu một mức phí cực kỳ thấp để thu được lợi nhuận bền vững.

Thứ hai, nếu bạn tiến tới sở hữu một doanh nghiệp, nhưng lại không thể quản lý hoạt động của nó, ai sẽ là người giúp bạn vận hành? Bạn có tin tưởng họ hay không? Họ liệu có hiểu được lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp hay không?
Định giá
Định giá là điểm mấu chốt. Chris Davis nhắc tất cả các nhà đầu tư cần nhớ rằng, trả quá đắt cho một mô hình kinh doanh tuyệt vời cũng là một vụ đầu tư tệ hạ. Giả sử cửa hàng giặt là như trên bạn sở hữu, đạt lợi nhuận 1 tỷ/ năm và mỗi năm nó lại tăng giá khoảng 10% (hay gấp đôi lạm phát). Nếu bạn mua với giá 5 tỷ cả công ty đó, chưa cần tính toán nhiều, đây là một thương vụ tuyệt vời. Nhưng ngược lại, nếu bạn mua cửa hàng với giá 50 tỷ, thì có lẽ đây là một thương vụ tệ hại, thậm chí cả khi tốc độ tăng trưởng 10% là mãi mãi, thì việc mua trái phiếu có lẽ vẫn hấp dẫn hơn.
Lợi suất hàng năm thu được sau 10 năm mới đạt 5,2% trên vốn, trong khi trái phiếu (hoặc gửi tiết kiệm) đã đạt được 7-10% liên tục trong 10 năm qua. Nếu coi mức lợi suất 7% (lợi suất dài hạn của trái phiếu Việt Nam), thì mức giá trả cho cửa hàng là khoảng 14 tỷ nên là con số hợp lý ở trong đầu nhà đầu tư khi nghĩ đến thương vụ này.

Tiếp tục đi xa hơn một chút, chúng ta cùng đề cập đến chi phí vốn, hơi phức tạp hơn, nhưng đó là bản chất kinh doanh. Nếu công ty bạn mua bao gồm cả mảnh đất có giá trị 10 tỷ, đồng thời lại là chủ nợ của một số bạn hàng khác với giá trị 3 tỷ, trong khi công ty không có nghĩa vụ nợ nào đáng kể. Trong tình huống này, bạn trả giá 14 tỷ, nhận về mảnh đất 10 tỷ, thu hồi nợ đọng 3 tỷ, tức là giá thực tế bỏ ra chỉ 1 tỷ đầu tư, tương đương lợi nhuận 1 năm.
Một tình huống khác, nếu máy móc, tài sản cố định đã vận hành khá lâu rồi. Bạn mua về, chỉ dùng thêm được 1 năm nữa rồi phải đầu tư mới một loạt máy móc. Trường hợp này, bạn sẽ phải điều chỉnh lại bản cân đối. Chính xác bạn sẽ phải bỏ ra bao nhiêu tiền để mua lại công ty?
Thứ hai, chúng ta cùng bàn đến lợi nhuận trên vốn. Khi người bán công ty cho bạn, thông thường họ sẽ để lợi nhuận ở mức càng cao càng tốt để đem lại lợi ích ngắn hạn. Tuy vậy, khi đứng ở góc độ chủ công ty, bạn thường muốn để lợi nhuận báo cáo ở mức thấp để giảm số tiền thuế phải nộp.
Từ hai góc độ khác nhau, việc ghi nhận chi phí, doanh thu cũng khác nhau. Quay lại ví dụ cửa hàng giặt là ở trên, nếu phải đầu tư những trang thiết bị mới, chi phí đầu tư mới và bảo trì sẽ phải được khấu hao, và nên được tính như tiền mặt thực chi ra.

Có một số nhà đầu tư luôn đưa ra định giá theo EBITDA, điều đó chửa thể hiện đúng bản chất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì chi phí khấu hao là cần thiết để duy trì lợi thế cạnh tranh. Một số doanh nghiệp lựa chọn khấu hao nhanh, một số khác lại lựa chọn khấu hao chậm. Nhiệm vụ của nhà đầu tư nên là lựa chọn chế độ khấu hao thận trọng trước khi đầu tư doanh nghiệp.
Điểm thứ ba cần lưu ý trong định giá, công ty sẽ làm gì với số tiền thặng dư hàng năm? Những nhà quản lý có thể trả cổ tức, hoặc tái đầu tư thêm một cửa hàng giặt là nữa… Doanh nghiệp sở hữu trở nên kém hấp dẫn hơn nếu việc tái đầu tư của họ không đạt mức sinh lời hấp dẫn.
Kỳ 3: Giá trị hay tăng trưởng
Sự khác biệt giữa nhà đầu tư giá trị và nhà đầu tư tăng trưởng nằm ở việc nhìn vào bản chất kinh doanh. Giá trị luôn tập trung vào giá cả phải trả để sở hữu công ty, giá trị của doanh nghiệp là bao nhiêu dựa trên những con số hiện tại. Họ không quan tâm đến tỷ suất tái đầu tư và chất lượng của doanh nghiệp. Hãy cùng xem, Chris Davis đã đầu tư như thế nào?

Một số nhà đầu tư tăng trưởng, ngược lại, chủ yếu quan tâm đến tỷ suất tái đầu tư, thường không có quan tâm đúng mức đến việc liệu mức tăng trưởng đó có bền vững hay không. Hay nói cách khác, họ xem xét tốc độ tăng trưởng, nhưng lại không quan tâm đến câu hỏi: bao lâu.
Chris cũng đề cập đến tỷ suất PEG không hiệu quả, vì những tham số toán học trong đó chưa thể hiện đúng. Ví dụ, theo công thức PEG, một doanh nghiệp có cổ phần đang được giao dịch tại PE là 30 lần, đang tăng trưởng 30%/năm được coi là một khoản đầu tư hấp dẫn.
Thực tế, Chris Davis sẵn sàng trả PE 50 lần nếu công ty có thể duy trì tốc độ tăng trưởng đó trong 10-15 năm. Nhưng nếu họ chỉ có thể duy trì tốc độ tăng trưởng 30% trong vòng 4 năm, khoản đầu tư đó lại thật sự tồi tệ. Như vậy, công thức toán học PEG đã bỏ qua một điểm chính yếu là thời gian duy trì tốc độ tăng trưởng đó.
Khi tìm kiếm cổ phiếu đầu tư, Chris Davis thường hướng đến các doanh nghiệp vốn hóa lớn, vì rất khó để tìm được một công ty nhỏ mà lại có đủ thông tin chứng minh năng lực thực hiện. Đôi khi, quỹ của Chris Davis cũng tìm thấy những công ty nhỏ với những đặc điểm như vậy, nhưng chúng rất hiếm.
Và vì Chris Davis thực sự quan tâm đến tính lâu bền của công ty, do vậy ông cũng ưu tiên hướng đến công ty vốn hóa lớn. Đồng thời là chất lượng quản trị công ty ở mức tốt. Tiêu chí của Chris Davis là tìm kiếm những doanh nghiệp mà vẫn ở dạng tiềm năng, kết quả ngắn hạn kém, hoặc vấn đề kinh doanh vẫn đang có sự tranh cãi.

Những tiêu chí trên vẫn tiếp tục được thừa hưởng từ thời ông, cha của nhà Chris Davis, luôn mua những công ty tăng trưởng nhưng vẫn đang trong “bùn lầy”. Hay nói cách khác, “double pay” nhờ việc tăng trưởng lợi nhuận song song với mở rộng chỉ số PE. Khác với phương pháp mua khi công ty có sự chiết khấu sâu với giá trị, Chris Davis mong muốn mua những công ty có vị thế mạnh và tỷ suất tăng trưởng ở mức tốt.
“Trong nhiều thập kỷ, chủ sở hữu những công ty phát sóng truyền hình tạo ra tài sản lớn nhờ dòng tiền mạnh hàng năm, nhưng theo chuẩn mực kế toán, họ chỉ được ghi nhận lợi nhuận vô cùng ít ỏi”. Chris Davis cũng đầu tư vào một số công ty mạng viễn thông trong thập kỷ những năm 1990 cũng vì lý do tương tự: “nếu theo chuẩn giá trị thông thường, chúng trông có vẻ khá đắt; nhưng những phân tích của chúng tôi về khả năng tăng trưởng và tính chất độc quyền trong sở hữu giấy phép đưa đến kết luận là những công ty này có giá trị lớn”. Theo cách này, Chris Davis sẵn sàng tham gia vào rất nhiều thương vụ đầu tư mà những nhà đầu tư giá trị khác bỏ qua.
Chris Davis cho rằng quan điểm này thường khá phổ biến trong giới đầu tư. Nếu bạn mua một công ty TNHH, bạn thường sẽ nhận ra rằng, tăng trưởng thì có giá trị hơn là không tăng trưởng. Nếu bạn mua một cửa hàng, bạn sẵn sàng trả nhiều tiền hơn khi vị trí của nó đẹp, nằm ở khu vực tăng trưởng nhanh, so với một khu vực mà dân số đang giảm dần. Nhưng trong thế giới đầu tư, mỗi nhà quản lý lại được yêu cầu chỉ hoạt động trong lĩnh vực cụ thể. Kết quả là, một số nhà quản lý quỹ chỉ thuần dựa trên giá trị hiện tại mà không coi trọng tăng trưởng, trong khi một số khác ngược lại. Cả hai hướng này dường như chỉ tập trung vào một vế của vấn đề.
Hiểu rõ bản chất sự việc và đầu tư với tính kỷ luật cao
Khi hồi tưởng về một thương vụ đầu tư tốt nhất của mình, Chris Davis hướng đến câu chuyện khi ông mua Costco, công ty bán lẻ với hàng hóa đa dạng, mức giá rẻ cho những thành viên của mình. Costco thực sự khác biệt với những công ty bán lẻ khác nhờ cấu trúc thành viên của mình, và mô hình này khó mà sao chép. Không hàng hóa nào được bán với mức giá cao hơn 14% giá vốn, biên lợi nhuận ở mức cực kỳ thấp. Nhưng dòng tiền họ thu được chủ yếu đến từ phí thành viên.

Mô hình kinh doanh với việc thu phí từ thành viên đem lại hai ưu điểm
Một là, khách hàng sẽ không ăn cắp. Ăn cắp là vấn đề lớn nhất của hầu hết các nhà bán lẻ, nhưng không phải là của Costco. Kẻ trộm thường sẽ không đưa cho bạn số thẻ tín dụng, thông tin cá nhân, trả mức phí 50 USD và vào trong ăn cắp. Thậm chí cả khi làm như vậy, thì chúng thu được gì, giấy vệ sinh, tã, bỉm?
Hai là, vì khách hàng trả phí thành viên, họ sẽ muốn đi mua hàng ở đây nhiều hơn, và tất nhiên họ hài lòng vì cửa hàng không có ý định lấy lãi cao đối với họ.
Chris Davis đã theo dõi cổ phiếu công ty trong nhiều năm, nhưng chưa thực sự sở hữu nó. Giá cổ phiếu Costco tăng từ 35 lên 50 trong đầu năm 2000. Sau đó, bỗng nhiên có tin đồn kết quả kinh doanh của công ty không đạt kế hoạch khiến giá cổ phiếu giảm từ 55 xuống 50; sau đó tầm giữa 45-46. Sau đó, họ công bố chính thức với kết quả kinh doanh thấp hơn dự tính, giá cổ phiếu lao dốc xuống 29 USD.
Sau khi nghe tin đó, Chris Davis và các đồng nghiệp ngay lập tức tìm hiểu nguyên nhân của sự việc. Và sau đây là ba điểm chính yếu.
(1) Họ mở nhiều cửa hàng hơn dự tính do nhìn thấy cơ hội gia tăng lợi nhuận; và vì những cửa hàng khi mới mở ra mất 6 tháng để hòa vốn,
(2) Chuyển đổi chấp nhận thanh toán sang thẻ American Express tử thẻ Discovery khiến chi phí chuyển đổi cao hơn một chút;
(3) Costco xây dựng thêm 2 kho cung ứng nhằm hiệu quả hơn, và chúng bị ghi nhận thành chi phí trong quý hiện tại

Nếu bạn đang vận hành một doanh nghiệp tư nhân, tất cả những điều trên đều bắt buộc phải làm để duy trì tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Chính vì vậy, những sự kiện trên là một cơ hội tuyệt vời để mua vào. Và quỹ của Chris Davis mua 17 triệu cổ phiếu với giá trung bình 29 USD, trở thành cổ đông lớn nhất chỉ trong một ngày.
Như vậy, Chris Davis đã cho chúng ta thấy những bài học quan trọng trong cơ hội đầu tư lần này.
Một là, Chris Davis và đội ngũ phân tích đã tìm hiểu rất kỹ về mô hình kinh doanh đặc biệt vượt trội của doanh nghiệp.
Hai là, thương vụ đầu tư này cũng cho thấy kỷ luật trong việc chờ đợi mức giá phù hợp. Chris Davis chia sẻ, trong trường hợp Costco, chúng tôi cho rằng mức giá hợp lý nằm trong khoảng 35-50, và chúng tôi sẽ không mua nếu cổ phiếu vẫn trong vùng này hoặc cao hơn. Đơn giản là, nếu chúng tôi mua sở hữu chúng, chúng tôi không thể bán ngay.
Chris sẵn sàng nắm giữ một thương vụ đầu tư trung bình hơn 5 năm, và chỉ bán khi xảy ra một trong ba lý do sau:
(1) cơ bản, triển vọng kinh doanh tồi tệ, hoặc khó lòng tăng trưởng;
(2) mất niềm tin vào ban lãnh đạo;
(3) Giá cổ phiếu tăng vượt quá giá trị thật.
ĐỌC THÊM: Kiên nhẫn – bài học bắt buộc của nhà đầu tư thành công
Quản trị rủi ro
Mỗi khi Chris Davis thực hiện đầu tư, câu hỏi xung quanh một thương vụ là “Số tiền tối đa chúng ta mất là bao nhiêu?”. Và chỉ khi trả lời xong câu hỏi đó, họ mới tiếp tục xem xét đến lợi nhuận tiềm năng.

Một điểm nữa giúp Chris Davis quản lý rủi ro là ông luôn chọn những công ty mạnh, và mua tại mức giá đang “khủng hoảng”. Mua ở mức giá rẻ (thấp hơn giá trị) tự nó đã giúp giảm thiểu rủi ro. Vì cho dù công ty không hoạt động đúng như những gì mà Chris Davis mong đợi, thì mức giá rẻ khiến chúng có rủi ro giảm giá thấp hơn nhiều nếu mua tại mức giá hợp lý, hoặc đắt.
Kỳ 4 (kỳ cuối): Luôn luôn học hỏi
Chris luôn tự hào về văn hóa gia đình, một mặt là phục vụ hết lòng vì khách hàng, mặt khác là luôn luôn tôn trọng và học hỏi từ sai lầm. Văn phòng của Chris xây dựng xung quanh văn hóa về tôn trọng sai lầm, ông cũng luôn thoải mái chia sẻ sai lầm của mình, thảo luận và học hỏi từ chúng.

Chris tự hào về những nhân sự trong đội phân tích của mình. Một chuyên viên phân tích xuất sắc có những đóng góp quan trọng cho công ty vì họ không dựa vào phân tích của phố Wall. Đồng thời, công ty cũng không thuê nhân sự chuyển từ Wall Street, thay vào đó, công ty tuyển dụng nhân sự mà có thể có đóng góp theo cách khác.
Ví dụ, đồng quản lý với Chris, ông Ken Feinberg, có nhiều kinh nghiệm trong ngành bảo hiểm. Một người khác từng là nhà báo, người có bằng tiến sĩ âm nhạc, người hoạt động trong lĩnh vực hóa chất … Và Chris luôn nói : “họ là những nguồn năng lượng tuyệt vời, chúng tôi không thể thực hiện những thương vụ đầu tư mà không nói chuyện với họ trước tiên”.
Khi chia sẻ về thương vụ tồi tệ nhất của mình, Chris chia sẻ về thương vụ “Lucent”. Có một số dấu hiệu cảnh báo rủi ro trong hoạt động công ty theo tiêu chuẩn của chúng tôi, nhưng Chris đã bỏ qua vì cho rằng Lucent là một công ty vĩ đại, một trong những công ty đáng ngưỡng mộ nhất ở Mỹ.
Một số những thương vụ tồi tệ cũng được viết lên trên tường để nhắc nhở đội ngũ của Chris, rất nhiều trong số đó còn kiếm ra tiền. Chris chia sẻ rằng, “chúng được viết lên tường vì chúng tôi chỉ may mắn kiếm được tiền. Chúng tôi sai trong phân tích, sai trong xác định dòng tiền, thậm chí một số trường hợp sai trong xác định sức khỏe của bảng cân đối kế toán”.

Thông tin khi đến với nhà đầu tư thường bị bóp méo tại tiêu đề của nó. Ví dụ, Chris mua Citicorp khi tiêu đề giật gân trên báo rằng họ sắp phá sản; mua công ty tiết kiệm California khi phố Wall xa lánh; mua Salomon Brothers tại thời điểm scandal trái phiếu; mua Philip Morris tại giá $18 vào năm 1999 khi mọi người đều nghĩ công ty đó phá sản; … Khi những thông tin xấu tràn ngập, cơ hội mở ra. Và thông thường, “chúng tôi sẽ mua nó một thời gian sau đó”.
Một số quỹ đầu tư luôn thực hiện mua hoặc bán tại cuối mỗi quý trước khi báo cáo lợi nhuận danh mục cho khách hàng. Chris cho rằng việc này thật là thảm họa. Các nhà quản lý quỹ đó muốn khách hàng của mình ổn, nên họ thường sẽ bán những cổ phiếu thua lỗ, và giữ (hoặc mua thêm) các cổ phiếu đang trên đà tăng giá. Như vậy, nhà quản lý quỹ sẵn sàng phải giữ những trạng thái mà họ không có đủ niềm tin.
Một bức thư của một khách hàng đang rất giận dữ được gửi cho Chris về việc vì sao danh mục lại nắm giữ những công ty viễn thông. Mặc dù quỹ đã đem lại kết quả đánh bại index trong khung thời gian 3 năm liên tục – và trong thời gian đó danh mục cũng có nắm giữ cổ phiếu ngành viễn thông (thiên về phòng thủ, tăng giá chậm).
Chris đã phản hồi rằng: “Chúng tôi luôn luôn có cả thỏ và rùa (trong danh mục), vì chúng tôi chuẩn bị cho mọi kịch bản thị trường. Chúng tôi không biết hiện giờ thị trường vẫn đang phục hồi, hay chuẩn bị cho sự sụt giảm lớn. Chúng tôi không dự đoán được. Và vì vậy, chúng tôi muốn vận hành danh mục cho mọi thời tiết.
Do đó, trong ngắn hạn có thể chúng tôi bị đánh bại bởi những nhà đầu tư thiên về tăng trưởng mạnh hoặc nhà đầu tư thiên chiết khấu sâu giá trị. Nhưng đánh bại họ trong khoảng thời gian trên 5 năm, đó là mục tiêu của chúng tôi.”

Tại mỗi thời điểm, Chris sẽ “gieo một vài hạt mầm, gặt hái một số thành quả, nhổ đi một số cây dại với chi phí giao dịch ít nhất”. Có một số nhà đầu tư có mức quay vòng danh mục lên đến 100%/ năm (mua & bán với giá trị tương đương cả danh mục), và theo Chris lúc đó bạn không còn đầu tư nữa mà đó là đầu cơ dựa theo tâm lý thị trường. Quỹ của Chris có mức quay vòng danh mục khoảng 15-20%, so với 90% của các quỹ tương hỗ.
Quỹ của Chris luôn cam kết quản trị danh mục đối với khách hàng, “chúng tôi đầu tư bằng việc ra những quyết định đúng”. Quan điểm Chris là luôn quản lý tiền của khách hàng như chính khách hàng muốn, và không có sự phân biệt. Phần thưởng của quỹ được ghi nhận trong dài hạn.
Các chương trình của chúng tôi được phát sóng trên:
Fanpage AzFin Việt Nam: https://www.facebook.com/AzFinVietNam