Phương pháp đầu tư Contrarians của David Dreman

Kỳ 1. David Dreman và phương pháp đầu tư contrarians

Trong gần ba thập kỷ thành công trong sự nghiệp đầu tư của mình, David Dreman được gắn với phương pháp đầu tư contrarians ( phương pháp đầu tư ngược xu thế) . Trong 10 năm gần nhất, quỹ Scudder-Dreman High Return Equity Fund của ông đã đánh bại S&P500 3% hàng năm, và vượt trội so với các quỹ khác 4%. Và lợi suất của quỹ đạt 13,71% tính từ 1994-2003

Trình độ học vấn của David Dreman

Để hiểu rõ hơn về David, AzFin và độc giả cùng đi tìm hiểu về thời thơ ấu của ông tại Winnipeg, Canada. Bắt đầu từ 3 tuổi, David hay được lui tới sàn giao dịch hàng hóa Winnipeg Commodities, sàn giao dịch lớn nhất tại Canada. 

Khi trưởng thành, ông rất thần tượng cha mình – người làm việc tại đó – nhất là khi cha ông thực hiện giao dịch ngược với xu thế đám đông, và cha của David cũng là một trong những người giỏi nhất. Và mặc dù rất bận rộn, nhưng cha của David cũng luôn chỉ bảo cho con trai mình về quyết định nào có xác suất đúng cao, tín hiệu nào có xác suất sai cao.

Khi học tại đại học Manitoba, David tự coi mình là một nhà kinh tế ngược xu hướng (phương pháp đầu tư contrarians) và theo lý thuyết đầu tư contrarians. David khuyên nhà đầu tư rằng, “trước khi bạn muốn theo trường phái đầu tư contrarians, bạn nên được đào tạo một cách bài bản, và chính thống”. Theo đó, ông luôn có đủ kiến thức và công cụ sử dụng như một nhà phân tích thực thụ.

Phương pháp đầu tư Contrarians – Phương pháp đầu tư đi ngược xu thế

Triết lý của phương pháp đầu tư contrarians đến từ giả định “bản chất của nhà đầu tư (đầu cơ) trên thị trường hành động phi lý trí, khiến cho xuất hiện những bất thường trên thị trường chứng khoán“. Giả định này đối nghịch với lý thuyết thị trường hiệu quả là (1) nhà đầu tư hành động lý trí và (2) tất cả thông tin ngay lập tức được phản ánh vào giá khiến cho nhà đầu tư khó lòng đánh bại thị trường.

Xây dựng triết lý về đầu tư contrarians

David bắt đầu xây dựng có hệ thống phương pháp đầu tư contrarians sau khi rời công ty Value Line; sau đó cho ra đời cuốn sách đầu tiên mang tên “Tâm lý học và thị trường chứng khoán: không chỉ là lựa chọn ngẫu nhiên”.

Vào cuối năm 1969, đầu 1970, giá cổ phiếu tăng cao, và David tự hỏi vì sao phố Wall trở nên quá lạc quan như vậy. Sau đó thị trường con gấu xuất hiện vào những năm 1973-1974, những cổ phiếu đó giảm đến 90% và không ai muốn để ý đến chúng nữa. Tại thời điểm này, David thắc mắc tại sao nhà đầu tư lại tránh xa cổ phiếu với sự ác cảm lớn, trong khi lúc này ông chỉ nhìn thấy giá trị.

Tìm cổ phiếu bị lãng quên

Tài chính hành vi đã thu hút David, ông nhận ra lý do tại sao mọi người thường xuyên mắc sai lầm. Những nhà phân tích chứng khoán hay quản lý quỹ đều là những người thông minh, trí tuệ nhưng họ đều bị mắc lỗi tâm lý khiến họ hành động theo đám đông. Họ bỏ qua những kiến thức được học hành bài bản để phạm sai lầm, mà sau đó, họ thường hối hận và tự hứa sẽ không bao giờ mắc lại.

Từ những nghiên cứu chuyên sâu hơn, David xây dựng chiến lược đầu tư contrarians, đầu tư vào những cổ phiếu bị lãng quên, mà ông cho rằng đó là chìa khóa để đánh bại index. Hầu hết những người tham gia thị trường đều bị ảnh hưởng tâm lý khi đầu tư. Cho dù họ học ở đâu, kiến thức về tài chính ra sao thì họ thường hướng đến những sai lầm tâm lý lặp đi, lặp lại.

Phương pháp đầu tư contrarians – thực tế trải nghiệm

Sau 5 năm thực thi phương pháp đầu tư contrarians, David có kết quả vượt trội so với S&P500 và những đồng nghiệp của mình. Đến năm 1985, cổ phiếu giá trị cho kết quả lợi nhuận khá ấn tượng so với những dòng cổ phiếu khác, đặc biệt là cổ phiếu tăng trưởng. 

Trước đó, đại đa số nhà đầu tư trên thị trường cho rằng cổ phiếu giá trị đã hết thời, họ bán ra khiến cổ phiếu giá trị giảm mạnh, điều này cho phép David mua thêm nhiều hơn nữa. Hơn một năm sau, cổ phiếu giá trị tăng trở lại, và vị thế MUA khiến cho ông lãi lớn.

Chúng tôi là những nhà đầu tư giá trị – David Dreman

Khẩu hiệu của David là: “Chúng tôi là những nhà đầu tư giá trị”. David luôn mua cổ phiếu khi chúng được giao dịch tại mức PE, P/CF hoặc P/B thấp; và sẽ ưu tiên những cổ phiếu có suất cổ tức hấp dẫn. Mức PE hấp dẫn là khi chúng thấp hơn chỉ số chung của thị trường.

Không nên hành động theo đám đông

Tất cả những nghiên cứu của David đều dựa trên những con số thống kê đã được kiểm chứng, từ đó xây dựng chiến lược. Đầu tư contrarians được hỗ trợ bởi những con số thống kê lịch sử, ví dụ như chiến lượng PE thấp đã được kiểm chứng là chiến lược đúng.

Một số ngành được coi là ngành dẫn dắt xu hướng, và một số ngành lại được coi là đi sau (laggard). So sánh Top 20% cổ phiếu được yêu thích với PE cao nhất, và 20% cổ phiếu kém yếu thích có PE thấp nhất. Những công ty có sự khác biệt trong PE thường có độ tương quan lớn với ngành, ví dụ như ngành công nghệ có PE cao hơn là ngân hàng.

Một nghiên cứu trên 1500 cổ phiếu lớn nhất từ năm 1970 đến 1996, với 44 ngành được lựa chọn, cho kết quả như sau. Top 20% cổ phiếu PE thấp cho tổng lợi nhuận (bao gồm cổ tức) là 17,7% hàng năm. Trong khi con số này của top 20% cổ phiếu có PE cao chỉ là 12,2%. Con số chung của thị trường là 15,3%.

 Cũng như nghiên cứu trên, nhưng nếu không lựa chọn chia đều các ngành, dòng cổ phiếu PE thấp đem lại lợi suất gộp hàng năm lên đến 19% và đánh bại nhóm PE cao là 6,7 điểm phần trăm. Đồng thời, nhóm PE thấp trả cổ tức trung bình 6% so với chỉ 1,9% của nhóm PE cao, và 4,3% của toàn thị trường.

Vậy lý do vì sao nhóm PE cao lại hoạt động kém hơn? Lý do chính yếu là dự báo của các chuyên gia thường là sai. Khi dự báo lợi nhuận, các chuyên viên phân tích có thể dự báo quá thận trọng thậm chí thường dự báo quá lạc quan nhiều hơn. Trong bất kỳ kịch bản nào, nhà đầu tư thường phản ứng thái quá. Và do tâm lý bầy đàn khiến sự việc đó thu hút sự để ý của nhiều nhà đầu tư khác.

Hãy hành động khác với đám đông

David đã thực hiện một thống kê cho thấy, từ năm 1970, độ lệch trung bình giữa dự đoán của các chuyên viên phân tích và kết quả thực tế là 44%. Ngoài ra, sự chênh lệch giữa dự báo và kết quả thực tế (mang hàm ý tiêu cực) khiến việc thiệt hại xảy ra do giảm giá tại cổ phiếu giá trị thường thấp hơn rất nhiều so với cổ phiếu tăng trưởng.

Chính vì vậy, những nhà đầu tư dựa nhiều với dự báo của các CTCK thường có xác suất thắng thấp. David mô tả nghiên cứu đã thực hiện từ năm 1973 đến năm 1996. Gần 8000 consescus (trung bình dự báo của tất cả CTCK), với các consensus của tối thiểu 4 CTCK khác nhau. 

Tiêu chuẩn chính xác là độ lệch chuẩn ±5% so với số báo cáo thực. Kết quả thống kê thực sự đáng thất vọng, đặt biệt là qua một thời gian dài. Chỉ 29% dự báo cho kết quả đúng với thực tế. Tỷ lệ này là 1/130 với 4 quý liên tiếp đúng; 1/200.000 với 10 quý liên tiếp; 1/50 triệu với 20 quý liên tục.

ĐỌC THÊM: Khủng hoảng kinh tế – Nên đầu tư vào đâu?

Kỳ 2. Các chiến lược thực thi phương pháp đầu tư contrarian

Trong phần 1, AzFin đã giới thiệu đến Quý độc giả về tổng quan phương pháp đầu tư ngược xu thế (phương pháp đầu tư contrarians) thông qua sự nghiệp của David Dreman. Trong kỳ này, chúng ta tiếp thục theo chân những suy nghĩ của ông trong thực thi chiến lược đầu tư contrarians này với từng phương pháp cụ thể với hệ số nhân PE, PB, P/CF thấp, cổ tức cao.

Chiến lược PE thấp

Sự thiếu chính xác trong những dự báo lợi nhuận khiến việc đầu tư dựa trên dự phóng của các CTCK là rất rủi ro. David cho rằng: “Nền kinh tế toàn thế giới có quá nhiều những ẩn số, mà tác động của những ẩn số này có thể khiến dự đoán ban đầu sai hoàn toàn. Đó là lý do chính để chiến lược giá trị hay PE thấp hoạt động tốt: đơn giản vì chúng không dựa trên những ước tính số học về lợi nhuận

Một cổ phiếu giá trị thường khó giảm sốc nếu kết quả lợi nhuận quý không đạt kỳ vọng, vì sự thận trọng đã được thể hiện trong giá. Nhưng khi lợi nhuận tăng vượt kỳ vọng, giá cổ phiếu sẽ tăng vượt trội”. Đó cũng là lý do vì sao nhà đầu tư thường đánh giá cao về tương lai qua giá cổ phiếu, hay PE cao, cổ phiếu tăng trưởng được ưa thích hơn cổ phiếu giá trị, PE thấp.

Cổ phiếu PE cao phải chịu sự sụt giảm lớn hơn so với cổ phiếu PE thấp

Khi lợi nhuận không đạt kỳ vọng, nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu PE cao có thể chịu mức lỗ lớn, trong khi cổ phiếu rẻ hơn lại có lợi thế nhờ rủi ro giảm giá cổ phiếu ở mức thấp. Trong ngắn hạn, lợi nhuận vượt trội so với kỳ vọng thường tích cực về giá cho cổ phiếu giá trị; ít khi tích cực cho cổ phiếu tăng trưởng. Và điều này hoàn toàn ngược lại khi lợi nhuận thực tế không đạt kỳ vọng.

Cũng như huyền thoại Warren Buffett từng nói “Nguyên tắc thứ nhất là: Đừng bao giờ để thua lỗ. Nguyên tắc thứ hai là: Đừng bao giờ quên nguyên tắc thứ nhất”, David tin rằng nhà đầu tư nên thực sự quan tâm đến rủi ro đi xuống của một khoản đầu tư, và thực tế có thể tồi tệ hơn rất nhiều so với dự phóng ban đầu; nhất là khi dự phóng lợi nhuận có tỷ lệ sai khá cao. 

Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là David không đọc các báo cáo phân tích của các CTCK. Trong khi đội ngũ của ông tìm kiếm những khoản đầu tư giá trị trên thị trường, giữ liên hệ với những doanh nghiệp trong danh mục đầu tư của mình; David vẫn tiếp tục tìm kiếm ý tưởng mới qua các báo cáo phân tích của các CTCK. Ông nói “Một số nhà phân tích khá sâu sắc, nhưng khuyến nghị hay kết luận cuối cùng lại chưa hợp lý. Chúng tôi đọc các báo cáo đó, và sau đó đưa ra kết luận riêng của mình”.

Các chiến lược contrarians khác

Bên cạnh việc tìm kiếm những cổ phiếu có PE thấp theo phương pháp đầu tư contrarians, David cũng lựa chọn những cổ phiếu có tỷ số P/CFO, P/B. Nghiên cứu đối với sự khác biệt trong chiến lược PE thấp và PE cao cũng cho kết quả tương tự cho chiến lược P/CFO, PB thấp. David nói: “Tất cả ba chiến lược trên đều đánh bại thị trường và những cổ phiếu tốt nhất trong nhóm cho kết quả vượt trội. Hai chiến lược được ứng dụng đi kèm là cổ tức cao hơn trung bình thị trường và gấp hơn ba lần cổ tức của những công ty PE, PB, P/CFO cao”.

Cổ tức cao: một con chim trong tay bằng hai con chim trong bụi

Chiến lược thứ tư, suất cổ tức cao trên giá vẫn có sự tranh cãi lớn trong giới phân tích. Thông thường những công ty có tỷ lệ cổ tức cao thường gắn với những ngành công nghiệp không có sự tăng trưởng như ngành tiện ích. Nhà đầu tư sở hữu những công ty này thường là tìm kiếm lợi nhuận trong hiện tại mà bỏ qua chi phí tương lai, đó là sự tăng giá trị công ty. Những nhà đầu tư tăng trưởng thường tránh xa những dạng công ty này, vì quan điểm của họ là cổ tức chính là “chi phí” của tăng trưởng nhanh. Và vì vậy, đa số nhà đầu tư sẽ phản đối với quan điểm: chiến lược cổ tức cao có thể đánh bại Index.

David đã thu thập thống kế và cho thấy, cổ phiếu có cổ tức cao vượt trội Index khoảng 1,2%/ năm trong khoảng thời gian 27 năm liên tục; và đánh bại những cổ phiếu không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp là 4%/ năm (với giả định cổ tức sau khi nhận được tái đầu tư vào chính công ty đó). Từ đó đem đến kết luận là, chiến lược đầu tư contrarian cho nhà đầu tư hai thứ tuyệt vời nhất: tăng giá cổ phiếu tốt hơn và cổ tức cao hơn.

XEM THÊM: Những bài học đầu tư chứng khoán từ dòng họ Chris Davis 

Kỳ 3. Hiện tại hay tương lai

Có hai luồng quan điểm khác nhau. Hầu hết nhà đầu tư thông thường trên thị trường là phân tích chứng khoán (dự báo doanh thu lợi nhuận tương lai), thì quan điểm của chiến lược đầu tư contrarian là phân tích giá trị hiện tại.

David nhận thấy giới hạn của việc phân tích chứng khoán nhất là trong vấn đề dự phóng, ông cho rằng mọi nhà đầu tư đều có thể đạt được kết quả tốt hơn với cách tiếp cận đầu tư contrarian. Thứ nhất, Quy trình đầu tư của quỹ David là thuần túy phân tích giá trị công ty.

Tiêu chí đầu tiên khi lựa chọn doanh nghiệp của David là: có vị thế tài chính vững mạnh. Điều này cho phép: 

(1) công ty sống sót trong giai đoạn môi trường kinh doanh bất lợi, hoặc nền kinh tế đi vào suy thoái;

 (2) đồng thời cũng là đảm bảo mức cổ tức bền vững;

 (3) cấu trúc tài sản không thay đổi nhằm giảm thiểu sai số khi phân tích ban đầu.

Những vấn đề cần phân tích trong tiêu chí đầu tiên này bao gồm doanh thu, dòng tiền, tăng trưởng lợi nhuận, đồng thời đánh giá về sản phẩm công ty.

Thứ hai, David tìm kiếm những công ty có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận nhanh hơn S&P 500 trong thời gian gần đây và nhiều khả năng sẽ không giảm trong thời gian tới. Phân tích này chỉ đơn giản là ước lượng tuyến tính trong ngắn hạn và không hướng đến dự đoán lợi nhuận. David tiếp tục xem xét các dự báo từ các CTCK, đặc biệt là những dự báo kém khả quan. Và mặc dù ước lợi nhuận theo hướng đơn giản như vốn có, David vẫn hướng đến những dự báo thận trọng nhất để giảm thiểu rủi ro.

Tìm kiếm công ty mạnh với xác suất giảm giá thấp nhất

Thứ ba, sau khi các chỉ báo trên đã phù hợp, David tìm hiểu liệu cổ tức công ty có lâu bền và tăng (nếu có thể), suất cổ tức có cao hơn mức trung bình của S&P 500? Cũng như những con số thống kê như trên, danh mục cổ phiếu những công ty có PE, P/CFO, P/B thấp, chiến lược contrarian có thể đem lại đồng thời suất cổ tức cao và mức tăng giá tốt hơn những cổ phiếu đang được yêu thích trên thị trường. David cũng luôn ưu tiên những công ty có suất cổ tức cao hơn trung bình, vì đó là yếu tố tăng xác suất thành công của cổ phiếu contrarian.

Quỹ của David Dreman

David đang quản quý 11 tỷ USD khách hàng trong các dạng tài sản dựa theo bốn định hướng chính gồm PE thấp, PB thấp, P/CFO thấp vầ suất cổ tức cao, cùng với đó là những đánh giá về mặt cơ bản, triển vọng doanh nghiệp như mô tả ở trên. Trong bốn định hướng đó, phương thức PE được thực thi chính trong tổng thể chiến lược đầu tư contrarian của ông.

Phương thức PE được thực thi chính trong tổng thể chiến lược đầu tư contrarian của David Dreman

Khi tìm được một thương vụ đầu tư hấp dẫn, David sẽ phải bán những vị thế khác để tăng tiền mặt. Một trong những kỷ luật đầu tư của ông là tránh xa những giao dịch không cần thiết “Bốn định hướng trên đều đem lại kết quả vượt trội so với thị trường chung trong nhiều năm; những định hướng này đều tránh xa những giao dịch không cần thiết, do vậy giảm thiểu chi phí giao dịch và tăng lợi nhuận chung của cả danh mục”;

Nguyên tắc bán

David bán cổ phiếu nếu triển vọng cơ bản của doanh nghiệp trở nên kém hơn. Và “nếu sự thay đổi càng rõ ràng, thì tôi sẽ bán ngay lập tức. Ngoài ra, nếu PE cổ phiếu tăng vượt quá PE chung của thị trường, và như vậy không còn đáp ứng tiêu chí giá trị của quỹ, chúng tôi sẽ bán nó – mà không quan tâm đến triển vọng tương lai hấp dẫn như thế nào”.

David luôn quan sát các chỉ số của cổ phiếu theo bốn định hướng trên theo phương pháp đầu tư contrarians, và không quan tâm nhiều đến giá. Nguyên nhân vì triết lý đầu tư của ông xoay quanh trục so sánh với thị trường. “Nếu chúng tôi mua cổ phiếu dựa trên PB, và sau đó cho dù giá cổ phiếu tăng gấp 3 lần, nhưng giá trị sổ sách (BV) cũng tăng theo tương tự, khiến cho PB vẫn như vậy – và có nghĩa là công ty vẫn rẻ dưới giá trị thực – thì chúng tôi vẫn sẽ nắm giữ“.

Đối với những cổ phiếu tiếp tục khá hấp dẫn chiếu theo lăng kính contrarians, nhưng hiệu quả giá cổ phiếu vẫn rất kém, David khuyến nghị thời gian nắm giữ khoảng 2,5-3 năm để những cổ phiếu chu kỳ thể hiện hết cơ bản sức mạnh doanh nghiệp. Và ông sẽ bán ngay lập tức nếu triển vọng dài hạn sau đó sụt giảm đáng kể.

Tâm lý học hành vi là bộ môn không thể thiếu trong chiến lược Contrarian

Khi quản lý quỹ “Lợi nhuận cao Scudder-Dreman”, David hiếm khi giữ vị thế tiền mặt. Thay vào đó, David sử dụng các công cụ tương đương, như công cụ trên thị trường tiền tệ (tín phiếu…) hoặc hợp đồng hoán đổi chỉ số S&P 500 (phái sinh).

Theo quan điểm của David, chiến lược đầu tư giá trị khá hiệu quả vì các chuyên gia phân tích, và nhà đầu tư thường có phản ứng thái quá trên thị trường. Trong đó tâm lý học hành vi, một trong những nguyên nhân chính gây biến động lớn đến giá cổ phiếu, lại ít được nghiên cứu trên thị trường. Đó là lý do tài chính hành vi là một phần không thể thiếu trong chiến lược đầu tư contrarians của ông.

TÌM HIỂU THÊM: Học chứng khoán từ triết lý của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln

Kỳ 4. Tài chính hành vi

David và một số nhà tài chính hành vi học khác, đối lập với quan điểm lý thuyết thị trường hiệu quả, cho rằng thị trường có vô vàn sự kiện vô lý, bất thường, và nhà đầu tư bị cuốn theo những hành động phi lý trí. 

Một ví dụ về những hành động này là nhà đầu tư thường có những phản ứng thái quá đối với những thông tin tốt và xấu của doanh nghiệp, giao dịch mua và bán dựa trên những thông tin không đầy đủ. 

Một ví dụ khác là đa phần đều hướng đến những cổ phiếu đang tăng giá, khiến cho cổ phiếu ngày càng đắt hơn; trong khi đó cổ phiếu rẻ dần bị quên lãng. Sau đó, những cổ phiếu nóng với kỳ kỳ vọng sẽ đánh bại thị trường lại kết thúc trong tình trạng bị thua lỗ, và ngược lại.

Phản ứng thái quá

David gọi đó là Lý thuyết về phản ứng thái quá trong đầu tư chứng khoán. Ông nói: “Qua một giai đoạn dài, những cổ phiếu được gọi là ‘tốt’ (đang tăng giá) thường kém hiệu quả hơn so với thị trường chung, trong khi cổ phiếu ‘tồi’ (ít giao dịch, đi ngang hoặc giảm) lại tăng vượt trội thị trường. Những tin tốt (hàm ý tốt hơn kỳ vọng) có ảnh hưởng tích cực hơn đối với cổ phiếu ‘tồi’; trong khi tin xấu lại tác động tiêu cực đến cổ phiếu “tốt” nhiều hơn.

Phản ứng thái quá khiến giá cổ phiếu đắt càng đắt và ngược lại

David giải thích kỹ hơn về hai loại tác động trong tài chính hành vi: một là tác động ‘sự kiện’, hai là những điều ‘diễn ra sau sự kiện’ đó. Tác động ‘sự kiện’ khiến giá cổ phiếu tiến gần đến mức trung bình (moving average); đây là kết quả của độ nhạy lớn của việc cổ phiếu ‘tồi’ với tin tốt, và cổ phiếu ‘tốt’ với tin xấu.

Tác động ‘diễn ra sau sự kiện’ thì tác động ngược lại; chúng làm giá cổ phiếu đi xa khỏi giá trị trung bình. Đó cũng chính là lý do khiến cho giá cổ phiếu ‘tốt’ trở nên cao bất thường so với cổ phiếu ‘tồi’. Với dạng tác động ‘sự kiện’ trong tài chính hành vi, khi kết quả kinh doanh thực tế khác với kỳ vọng khiến giá cổ phiếu biến động mạnh hơn so với tác động ‘diễn ra sau sự kiện’.

Cảm giác thua lỗ

Một trạng thái tâm lý khác cũng hay xảy ra đối với nhà đầu tư mà tâm lý học hành vi đề cập đến khi đầu tư chứng khoán là ứng xử khi cổ phiếu mua lãi hoặc lỗ. Với những trạng thái thua lỗ, nhà đầu tư có cảm giác hối hận và thất vọng.

Ác cảm thua lỗ khiến cho nhà đầu tư kém sáng suốt trong quyết định đầu tư

 Và khi bị thua lỗ như vậy, họ thường giữ cho đến khi cổ phiếu đó hòa lại vốn. Đối với trạng thái có lãi, nhà đầu tư thường năm giữ qua một khoảng thời gian, và luôn tin tưởng rằng giá sẽ còn tiếp tục tăng. Trong cả hai trường hợp, nhà đầu tư đều kỳ vọng diễn biến giá sẽ có lợi cho mình.

Chiến lược hành động

Phương pháp đầu tư Contrarians của David cũng xoay quanh tài chính hành vi, “Chiến lược chúng tôi phát triển được xây dựng trên nền tảng tâm lý học hành vi, và đó là lý do vì sao chiến lược này hiệu quả. Và sẽ an toàn hơn khi dự báo những hành động thái quá của nhà đầu tư, so với dự phóng kinh doanh của các công ty”.

Cơ hội đầu tư xuất hiện khi có phản ứng thái quá của đại bộ phận các nhà đầu tư

Mô tả về phương pháp đầu tư “contrarians ” của mình, David nói về tháng 8/1982, khi đó các nhà đầu tư và truyền thông thực sự sợ hãi rằng thị trường sẽ tiếp tục giảm. Sau đó, đột nhiên chỉ trong một tuần, chỉ số DJ tăng một mạch và chuyển trạng thái sang thị trường bò tót; thị trường tăng gấp 9 lần trong 5 năm. 

Rõ ràng, tâm lý bi quan tiêu cực đã bị phản ánh thái quá. Cổ phiếu tại thời điểm đó đang được giao dịch tại mức giá thấp nhất của chúng kể từ những năm 1930s. Hầu hết các nhà đầu tư đã xem thị trường cơ bản đã chết vì chỉ số thấp hơn cả cuộc sụp đổ năm 1970.”

Nhóm của David đã bắt đầu nghiên cứu đến định giá thị trường và phản ứng của nhà đầu tư lúc đó, họ tin rằng giá cổ phiếu đang được giao dịch tại mức giá chiết khấu rất rẻ. Thị trường trái phiếu cũng đã phản ánh các tin xấu vào giá. Tất cả mọi người đều cho rằng đó là thời điểm tồi tệ nhất của thị trường chứng khoán.

Tại thời điểm đó, David cùng đội phân tích của mình đã thực hiện hành động mua sau khi đã phân tích kỹ. David mua thêm cổ phiếu và trái phiếu trả lãi một lần tại thời điểm đáo hạn (zero coupon). Lý do mua trái phiếu zero vì đây là dạng trái phiếu có độ nhạy lớn đối với lãi suất. Trong khi đó, các dòng tin trên truyền thông tiếp tục là thị trường con gấu.

 Trong sáu tháng sau đó, nhiều nhà đầu tư cũng bắt đầu nhận ra như David, họ thấy dường như mọi thứ nhìn nhận lúc trước là quá đà, và ngay lập tức hành động. Cổ phiếu và trái phiếu tăng giá chóng mặt, riêng trái phiếu zero-coupon của David tăng giá hơn 100%. “Chúng tôi tin rằng đó là một cơ hội hiếm có trong đời mà nhà đầu tư dũng cảm sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng”.

TÌM HIỂU: Các giai đoạn quan trọng của TCCK Việt Nam

Kỳ 5. Theo phương pháp đầu tư Contrarians có nên dự đoán thị trường

Dự đoán thị trường?

Việc dự báo “phản ứng thái quá” của thị trường của nhà đầu tư khá dễ dàng nhờ dựa vào những gợi ý từ các kỳ trước, tuy vậy, AzFin nhận thấy rằng dự đoán chính xác khi nào sụt giảm (tăng giá) xảy ra khi lại gần như không thể.

Vào tháng 8/1987, David cũng nhận thấy thị trường Nhật dường như đang bị định giá quá cao, và khả năng sẽ sụt giảm. Chỉ số Nikkei 225 đang ở 25.760 điểm; và PE trung bình thị trường đang ở 86 lần, so với mức đỉnh chỉ 20 lần của chỉ số Dow năm 1929. Nhưng tình trạng này vẫn tiếp tục diễn ra, những chuyên gia, nhà báo thậm chí còn cho rằng hiện tượng này sẽ tiếp tục trong nhiều năm tới. Nguyên nhân là sự thiếu hụt cổ phiếu trên thị trường. 

Thị trường chứng khoán rất khó dự đoán

Ngoài ra, David cũng nhận thấy rằng 20-30% lợi nhuận của các công ty của Nhật đến từ đầu cơ giá lên trên thị trường cổ phiếu. Một dấu hiệu khác là những nhà đầu tư tổ chức lớn của Nhật, những người nắm giữ một lượng lớn cổ phần, không bao giờ bán. Nhiều chuyên gia cũng bắt đầu gọi thị trường Nhật là trường hợp đặc biệt.

Mặc dù David nhận định đúng về sự suy thoái của thị trường Nhật sẽ diễn ra, nhưng thực tế, Nikkei tiếp tục tăng đến khoảng 37.000 điểm vào năm 1990. Sau đó là cú sụt giảm kéo dài 20 năm tại mức đáy 7.699 vào tháng 4/2003.

Vào năm 1990, suy thoái đã biến thành khủng hoảng khi các nhà đầu tư bán tháo các khoản nắm giữ của mình khi cho rằng các vấn đề trong hệ thống ngân hàng quốc gia có thể khiến khoản đầu tư của họ về 0. Lúc đó, David bắt đầu mua vào cho vị thế của mình.

 Và cũng như thường lệ, David đầu tư với sự kiên nhẫn, trải dài các lần mua theo thời gian. Những vị thế mua ban đầu của Ông cũng phải chứng kiến sự sụt giảm khá mạnh, khiến cho lợi nhuận bị âm trong năm 1990, nhưng vẫn tốt hơn khá nhiều so với các quỹ đầu tư khác. Và đúng theo kỷ luật của mình, David tiếp tục mua vào.

Những vị thế mua ban đầu của Dreman cũng chịu sự sụt giảm khi thị trường rơi vào khủng hoảng

Một trong những cổ phiếu David mua vào, PNC, ngân hàng lớn của Pittsburgh. Lợi suất của công ty là 14%, đã trích lập toàn bộ nợ xấu, nhưng giá cổ phiếu vẫn tiếp tục xuống dốc mạnh. Giá cổ phiếu mất 1/3 giá trị chỉ vì nhà đầu tư đều lo ngại tất cả các ngân hàng đều rất xấu. David mua vào với giá trung bình 10 usd/ cp. Một năm sau, giá quay lại mức cao nhất là 20 usd, và sau bốn năm là 50 usd. Chỉ trong vòng hai năm, David đã gấp đôi giá trị nhờ vị thế nắm giữ các cổ phiếu ngành ngân hàng.

David sau đó chia sẻ thêm về dự đoán thị trường của phố Wall: “Tôi cảm thấy ám ảnh bởi những dự đoán của phố Wall, vì tính sai, liên tục sai, trong thời gian dài của họ. Và cũng phải ghi chú rằng, tất cả các dự đoán đều là ngắn hạn. Mỗi chuyên gia phân tích đưa ra một quan điểm, và nếu thị trường đạt như dự báo, anh ấy sẽ được coi là anh hùng. Ngay sau đó, mỗi khi anh đưa ra một quan điểm, dòng tiền ngay lập tức sẽ hành động theo. Cho đến khi anh ta sai, giới đầu tư lập tức từ bỏ, và tìm kiếm một người khác đang dự báo đúng. Sự luân chuyển cứ liên tục diễn ra như vậy, và những nhà đầu tư thì cứ tiếp tục mất tiền trong hành trình tìm kiếm một người nào đó mà họ có thể tin tưởng”.

Hầu hết những gì phố Wall dự đoán đều sai

Ngoài ra, hầu hết nhà đầu tư đều cố gắng dự đoán thị trường, bán khi họ cho rằng thị trường chỉ đang tạm hồi phục, mua khi thấy các chỉ báo cho thấy sẵn sàng cho một chu kỳ tăng giá mới, phân bổ lại tài sản theo đánh giá cá nhân. Nhưng, David cho rằng, kể cả khi họ bán đúng đỉnh, gần như không có cơ hội để họ mua lại vị thế này tại đáy. Thực tế là, do hầu hết mọi người căn bản không dự đoán được thị trường, việc mua đáy bán đỉnh gần như không thể. Do tâm lý ngắn hạn, thay vì mua vào khi giá cổ phiếu giảm, các đa số các nhà đầu tư lại cố gắng bán ra. Ngược lại, khi giá cổ phiếu bắt đầu tăng, họ lại là những người mua khá chủ động.

David nhận thấy rằng, qua giai đoạn 10 năm liên tục, 95% các quỹ đều thua thị trường. Một nhà quản lý thành công tại một thời điểm, có nhiều dòng vốn đổ vào, và thường lại có kết quả đầu tư yếu kém một vài năm sau đó. Quan trọng nhất là nhà đầu tư luôn phải cảnh giác, tránh bị tâm lý đám đông tác động.

Tập trung vào giá trị

Vào khoảng giữa thập kỷ 1990s, David vẫn không từ bỏ kỷ luật đầu tư của mình, thậm chí cả khi dòng cổ phiếu công nghệ, dotcom, tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới. Theo như David nói, khi bong bóng tiếp tục phình to, những nhà đầu tư thận trọng nhất cũng bị lung lay với “kỷ nguyên mới”; đầu tư giá trị dường như đã chết. 

Hầu hết mọi nhà đầu tư đều ấn tượng với cổ phiếu công nghệ, họ đều cho rằng sự tăng giá lần này rất khác với những bong bóng trước. Đương nhiên, chuyện sau đó thì ai cũng rõ, bong bóng công nghệ vỡ vụn trong năm 2001 đã khiến nhiều nhà đầu tư chứng khoán mất toàn bộ tài sản.

Bong bóng trong lịch sử đều do niềm tin mù quáng dây ra

Là một trong những nhà đầu tư theo trường phái đầu tư “contrarian” nổi tiếng, David gọi những quả bong bóng trong lịch sử tài chính đều do niềm tin mù quáng gây ra. Bong bóng dotcom này cũng vậy, và có thể so sánh với bong bóng hoa tulip. Những bông hoa tulip tăng giá rất mạnh mẽ trong những năm 163x, chủ yếu từ tâm lý đầu cơ của người dân. Công dụng hoa tulip thực sự rất ít, đơn giản là làm đẹp, và nếu có một bát cháo thì tulip có thể làm gia vị rất tuyệt vời. Giá một bông hoa tăng từ 1 đồng penny năm 1930 lên đến 20.000 usd năm 1937. Và khi bong bóng vỡ, rất nhiều gia đình đã mất hàng triệu usd, nhà cửa và lâm vào cảnh phá sản.

Các nhà quản lý tiền bạc, các chuyên gia phân tích được đào tạo một cách bài bản, nhưng lại góp phần cho sự sụt giảm giá trị lên đến 7.000 tỷ USD tài sản của nhà đầu tư trong bong bóng công nghệ dotcom 2001. Các lý thuyết đầu tư hiện tại không quan tâm đến vai trò của tâm lý học trong việc ra quyết định của nhà đầu tư chứng khoán. Theo David, trong giai đoạn hoảng loạn của thị trường, tâm lý học đóng vai trò tác động chính trong hoạt động của nhà đầu tư.

David tin rằng những đợt khủng hoảng của thị trường là cơ hội tốt nhất để kiếm lợi nhuận, vì đó là lúc mà hành động của nhà đầu tư trở nên thiếu kiểm soát và quá đà. Hầu hết mọi người vẫn chỉ nhìn vào giá, chứ không dựa vào giá trị thực tế cổ phiếu. Thêm vào đó, mỗi nhà đầu tư lại hành động khác nhau dựa trên cùng một thông tin. Sự khác biệt này nằm ở tâm lý học hành vi. Các chuyên gia thị trường, truyền thông luôn cho rằng thị trường chứng khoán còn tồi tệ hơn nữa khi giá cổ phiếu giảm. Tương tự khi bong bóng cổ phiếu, mọi suy nghĩ đều hướng đến: lần này sẽ khác.

Khủng hoảng là cơ hội để kiếm lợi nhuận cao

Ví dụ sự sụp đổ thị trường chứng khoán tháng 8 năm 1987, chỉ số Dow Jones giảm 22,6% chỉ trong một ngày. Sự hoảng loạn của nhà đầu tư chứng khoán luôn giống nhau khi gặp tình cảnh như vậy. Rất nhiều nhà đầu tư so sánh sự sụt giảm 1987 với đại khủng hoảng kinh tế năm 1929. Hoạt động giá cổ phiếu và khối lượng giao dịch nói chung của thị trường chứng khoán từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1987 rất giống với cùng thời kỳ vậy năm 1929. Vậy là, đến cuối tháng 10 đại đa số đem đến kết luận, một cuộc khủng hoảng mới sắp diễn ra. Nhưng, thực tế là, thị trường tăng 22,9% một năm sau đó, và 54,3% trong 2 năm.

Vào đợt bong bóng dotcom năm 2001, David đã thực hiện ước tính giá trị của một vài công ty internet so với giá hiện tại của chúng, và sau đó 3 năm đã được minh chứng là đúng. Ông cho rằng giá trị thực của Yahoo là $16,5/ cổ phiếu so với mức giá lúc đó 95 usd (ba năm sau giá chỉ còn 9,49 usd); Qwest 12,5 usd/cp so với giá lúc đó là 46 usd (3 năm sau là 9,49 usd); E-Trade 12,5 usd so với 53 usd (4.61 usd); American Online 19,5 usd so với 74 usd (12,36 usd). Với trường hợp của American Online (AOL), với mức giá đang được giao dịch năm 1999, David cho rằng AOL cần đến 18 tỷ thuê bao, gấp 3 lần dân số trái đất.

ĐỌC NGAY: Kiên nhẫn – bài học bắt buộc của nhà đầu tư thành công

Kỳ 6. Cơ hội từ cổ phiếu tăng trưởng đang gặp khó khăn tạm thời

Bài học từ cổ phiếu giá trị

Trái ngược với các quỹ giá trị khác, David thích đầu tư vào cổ phiếu tăng trưởng, nhưng được định giá theo giá trị. Lý do vì cổ phiếu blue-chip thường có mức tăng trưởng lợi nhuận đã được chứng minh vững chắc. Ưu tiên khi đầu tư chứng khoán của David không chỉ là giá rẻ mà còn là tăng trưởng. Điều này có nghĩa là ưu tiên mua các công ty đang phát triển mạnh hơn mức trung bình chỉ số S&P 500, có cơ cấu tài chính mạnh. Ngoài ra, dòng tiền mạnh cũng là một điểm cộng.

Một trong những nơi tốt nhất để tìm cơ hội đầu tư, là trong giữa một ngành kinh doanh bị lãng quên, hoặc trong một cuộc khủng hoảng hoặc suy thoái làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán nói chung. Trong ngành kinh doanh những cổ phiếu đang bị định giá thấp một cách ngạc nhiên là những nơi mà David có thể tìm ra những cơ hội, đặc biệt khi lý do giá cổ phiếu thấp là không hợp lý; hoặc David sẽ tận dụng lợi thế khi thị trường chứng khoán phản ứng thái quá.

Một ví dụ về một cổ phiếu bị định giá thấp trong phản ứng bị phản ứng thái quá, là Philip Morris. Đây là công ty được sở hữu lớn nhất trong quỹ đầu tư của David, bao gồm hơn 10% tài sản với khoảng 10 triệu cổ phiếu. Philip là công ty lâu đời với hơn 40 năm tuổi, chỉ số P/E dưới 12 lần, suất cổ tức hơn 5%. Vài năm qua giá cổ phiếu Philip đã có hoạt động khá tốt, tăng gấp đôi vào năm 2000 và tăng một chút ít vào năm 2001. 

Mặc dù David đã nắm giữ cổ phiếu này từ năm 1988 và trải qua một vài thời kỳ hỗn loạn, suy thoái, nhưng ông vẫn tin rằng Philip với mức chia cổ tức hào phóng và thương hiệu mạnh vẫn mang lại tiềm năng tăng trưởng rất lớn. Ông chỉ ra rằng các nhà phân tích đang định giá công ty ở mức khoảng 85 usd một cổ phiếu, do đó, ngoài việc công ty bị định giá thấp, David tin rằng, trong môi trường thị trường chứng khoán suy thoái như năm 2001, một cỗ máy kiếm tiền như Philip sẽ là tâm điểm chú ý của các nhà đầu tư.

Công ty Philip Moris có thể đứng vững trước mọi kiện tụng với bảng tài chính khỏe mạnh

Liên quan đến các vấn đề kiện tụng của công ty Philip, David nhận thấy các vấn đề pháp lý của công ty đang giảm dần. Các vấn đề này hầu hết đã được giải quyết ở các vụ kiện lớn. Tuy nhiên, ngay cả khi những vụ kiện tụng vào vị thế bất lợi, lợi thế tài chính khổng lồ của các công ty thuốc lá có thể dễ dàng chi trả cho bất kỳ khoản thanh toán nào liên quan đến kiện tụng đối với các tiểu bang. Minh chứng là công ty có khả năng tăng giá thuốc thêm 25 cent/ hộp, và khoản đó đù tiền chi trả cho khoản thanh toán lên đến 250 tỷ usd của các bang.

David nói thêm rằng hai phần ba thu nhập của đến từ khoản đầu tư vào các doanh nghiệp khác, chẳng hạn như 84% cổ phần sở hữu tại công ty Thực phẩm Kraft và 100% cổ phần sở hữu tại Miller brew. Các thương hiệu khác bao gồm cà phê Maxwell House, phô mai kem Philadelphia, nước chanh Country Time, phô mai Velveeta, Tang, Raisin Bran, bia Red Dog và rượu vang Old Malt 800. David cảm thấy rằng bất kể điều gì xảy ra với nền kinh tế, mọi người sẽ vẫn mua thuốc lá và thực phẩm. Do đó, Philip Morris là một cơ hội đầu tư hấp dẫn trong thời kỳ kinh tế khó khăn hoặc suy thoái.

Công ty Philip Moris có thể đứng vững trước mọi kiện tụng với bảng tài chính khỏe mạnh

Một cơ hội khác đến từ sự phản ứng thái quá của thị trường chứng khoán là khi xuất hiện khủng hoảng. Sự kiện khủng bố nước Mỹ ngày 11 tháng 9 là một cơ hội như vậy. Khi đó, các nhà đầu tư nghĩ rằng mọi người sẽ hoàn toàn ngừng bay, vì vậy tất cả các cổ phiếu liên quan đến du lịch đều bị sụp đổ. Thời điểm đó, David đã mua cổ phiếu các công ty sòng bạc, chẳng hạn như Harrah. Các cổ phiếu sòng bạc bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng với năng lực tài chính mạnh của các công ty này và nhờ có phản ứng thái quá trên thị trường, David đã có thể mua rất nhiều cổ phiếu sòng bạc ở mức rẻ. Trong vòng vài tháng, các vị thế mua các công ty sòng bạc đã tăng gấp đôi giá trị.

Vào đầu năm 2002, đã có những phản ứng thái quá của thị trường chứng khoán liên quan đến bê bối làm giả báo cáo của Enron, đã làm ảnh hưởng niềm tin đến một số công ty khác có phương pháp ghi nhận kế toán sớm (aggressive). Các nhà đầu tư chứng khoán trở nên nhạy cảm đến mức những lời đồn nhỏ nhất về sự bất thường trong kế toán tại một công ty cũng khiến giá cổ phiếu sụt giảm.

Ngay lúc đó, David mua những cổ phiếu này sau khi sự nhạy cảm của giới đầu tư làm ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu. Theo David, đây là cơ hội tốt tựa như các cuộc khủng hoảng. David đưa ra một nghiên cứu mà ông đã thực hiện trong 11 cuộc khủng hoảng lớn kể từ Thế chiến II. Sáu cuộc khủng hoảng là đến từ chính trị và năm số còn lại là thuần tài chính. Nhưng trong mọi trường hợp, thị trường chứng khoán đã tăng trung bình 25,8% sau một năm và 37,5% sau hai năm. Trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng, bán là một lựa chọn tồi; cách tốt nhất là hãy sẵn sàng mua cổ phiếu giá rẻ.

Luôn suy nghĩ trái ngược (contrarians)

Theo phương pháp đầu tư contrarians, David cho biết “Công việc của chúng tôi chỉ đơn giản dựa trên thực tế là mọi người kỳ vọng rất cao đối với một số cổ phiếu nhất định và quá thấp đối với các cổ phiếu khác. Khi mọi người trả giá quá cao quá mức, tức là tự giảm bớt tỷ lệ thắng trong việc đặt cược của họ. Và nếu bạn tiếp tục đặt cược với tỷ lệ thắng thấp, theo thời gian dài bạn sẽ thua. Ngược lại, nếu bạn đặt cược với tỷ lệ thắng cao, theo thời gian bạn sẽ là người kiếm ra tiền”.

Luôn suy nghĩ độc lập và khác biệt

Nói cách khác, câu chuyện của David là về sự hiểu biết về tâm lý đằng sau sự vận động của thị trường chứng khoán. Cho dù đó là nhà đầu tư chuyên nghiệp hay nhà đầu tư mới bắt đầu, tất cả chúng ta đều mắc phải những sai lầm tâm lý giống nhau. Mọi người bị hấp dẫn một cách tự nhiên khi thực hiện một quyết định được đa số chấp thuận.

Phương pháp đầu tư chứng khoán contrarians hiệu quả nhờ (1) ít nhà đầu tư sử dụng, (2) dự báo của các công ty chứng khoán có tỷ lệ đúng thấp. Miễn là các nhà đầu tư tin rằng họ có thể xác định chính xác tương lai của các cổ phiếu, cho dù là yêu thích hay bị lãng quên, họ sẽ có thể kiếm được lợi nhuận cao bằng cách sử dụng phương pháp đầu tư contrarian.

Nếu còn bạn phân vân hoặc chưa biết áp dụng phương pháp này vào đầu tư chứng khoán như nào, bạn có thể tham gia khóa học Chiến lược giải ngân và quản trị vốn của AzFin. Hi vọng bài viết này mang lại kiến thức hữu ích cho bạn. Chúc các bạn thành công.

Các chương trình của chúng tôi được phát sóng trên:
Tham khảo các khóa học của AzFin tại: https://academy.azfin.vn/p/trangchu
Fanpage AzFin Việt Nam: https://www.facebook.com/AzFinVietNam
Youtube: https://www.youtube.com/c/azfinvietnam

https://azfin.vn/p-e-thap-can-than-voi-bay-gia-tri/

Related posts

Bí quyết chọn cổ phiếu dành cho nhà đầu tư ngại rủi ro

“Ngài thị trường” (Mr. Market) – Bí mật đầu tư vượt thời gian

Vuợt qua FOMO – Bí quyết đầu tư giá trị thành công